TRỢ NIỆM NGƯỜI LÂM CHUNG
VẤN ĐỀ NGƯỜI NIỆM-PHẬT
LÚC LÂM-CHUNG ĐƯỢC VÃNG-SINH
HAY KHÔNG?
1.HỎI: Nếu bảo rằng người Niệm-Phật đều được vãng-sinh Tây-Phương, tại sao tôi thấy có nhiều người xuất-gia cũng như tại-gia, bình-thường cũng hay Niệm-Phật và nói rằng mong được vãng-sinh. Nhưng đến lúc lâm-chung, thì chết một cách mơ mơ hồ hồ. Không thấy mấy ai được thực-sự vãng-sinh là tại sao?
ĐÁP: Đó là do người Niệm-Phật đến lúc lâm-chung không đủ nhân-duyên. Nếu nhân-duyên đầy-đủ thì chắc-chắn được vãng-sinh.
2. HỎI: Nhân-duyên là sao?
ĐÁP: Người tu bình-sinh chân-tín, thiết-nguyện, Niệm-Phật cầu sinh Tây-Phương mà đến lúc lâm-chung vẫn có được tâm-niệm nầy, thì đó là “nhân” TỰ-LỰC. Nếu bình-sinh chưa biết về tín-nguyện, Niệm-Phật cầu sinh Tây-Phương, đến lúc lâm-chung may mắn được gặp thìện-hữu hướng-dẫn mà sinh tín, phát nguyện, cầu sinh Tây-Phương, thì đó cũng là “nhân” TỰ-LỰC. Giáo-chủ Tây-Phương Cực-Lạc Thế-Giới là Đức Phật A-Di-Đà cùng vạn-đức hồng-danh của Ngài có thể khiến cho chúng-sinh được sinh sang cõi Tây-Phương Cực-Lạc, thì đó là “duyên” THA-LỰC.
Lúc lâm-chung mà được thiện-hữu trợ-niệm, cũng là “duyên” THA-LỰC.
3. HỎI: Người tu đến lúc lâm-chung mà đầy-đủ nhân-duyên thì chắc-chắn được vãng-sinh, xin giải rõ lý nầy.
ĐÁP: Người tu đến lúc lâm-chung mà chân tín, thiết nguyện, Niệm-Phật thì Đức Phật A-DI-ĐA` là “duyên” THA-LỰC, còn cái tâm năng-niệm là “nhân” TỰ-LỰC. Ngay lúc đó, dùng cái tâm năng-niệm mà niệm Đức Phật A-DI-ĐÀ thì Đức Phật A-DI-ĐÀ nhân cái tâm năng-niệm mà hiển-hiện. Cái tâm năng-niệm lại nhờ sự hiển-hiện của Đức Phật A-DI-ĐÀ mà được thanh-tịnh. Ngay phút giây đó, chính là TỰ-LỰC và THA-LỰC cảm-ứng đạo-giao, nhân-duyên hòa-hợp, do đó mà được vãng-sinh Tây-phương Cực-lạc.
4. HỎI: Người Niệm-Phật đến lúc lâm-chung mà không đủ nhân-duyên thì không được vãng-sinh. Xin giải rõ lý nầy.
ĐÁP: Người tu lúc bình-sinh tín-nguyện Niệm-Phật mà công-phu chưa được thuần-thục, thì đến lúc lâm-chung tuy có tín-nguyện cầu sinh Tây-Phương (có “nhân”), nhưng bị bệnh khổ và đủ thứ phiền-não bức-bách nên cái tâm Niệm-Phật khởi lên không nổi. Nếu không có thiện-hữu hướng-dẫn, trợ-niệm (không “duyên”), lại gặp thân-thuộc không hiểu đạo-lý, cứ khóc-lóc, hỏi-han thì tâm người tu khởi lên đủ thứ tạp-niệm mà không được vãng-sinh. Trường-hợp nầy gọi là có “nhân” mà không “duyên” nên không thể vãng-sinh.
Lại cũng có người bình-thường tín-nguyện Niệm-Phật cho có lệ. Đến lúc lâm-chung may-mắn được thiện-hữu trợ-niệm (có “duyên”), thân-thuộc cũng không khóc lóc làm chướng ngại. Khổ nỗi người tu tự tâm mình sinh điên-đảo, tham-luyến thế-gian, không khởi tâm Niệm-Phật cầu sinh Tây-Phương (không “nhân”), bởi vậy theo ái-dục mà đầu thai các nẻo thiện ác. Đây gọi là có “duyên” mà không “nhân” nên không thể vãng-sinh.
Lại cũng có người bình-thường Niệm-Phật chĩ để cầu cho gia-đạo bình-an, mạnh-khỏe sống lâu v..v… Do đó đến phút lâm-chung thì chỉ có sợ chết. Khi bệnh chưa nặng lắm thì cũng Niệm-Phật nhưng để cầu lành bệnh chứ không hề có tâm-nguyện cầu vãng-sinh (không “nhân”). Đến khi bệnh trở nên nguy-kịch thì bệnh khổ bức-bách do đó không thể Niệm-Phật. Thân-thuộc cứ theo thế tình mà làm động tâm thêm, lại không được thiện-hữu trợ-niệm (không “duyên” nên không thể vãng-sinh.
5. HỎI: Vậy thì người tu Niệm-Phật đến lúc lâm-chung, thế nào là nhân-duyên đầy đủ để được vãng-sinh?
ĐÁP: Như có hạng người đại căn-cơ, lúc bình-sinh chân tín, thiết nguyện, Niệm-Phật. Tín-nguyện đã rất chân-thiết, công-phu Niệm-Phật lại rất thuần-thục. Đến lúc lâm chung, không cần phải người khác trợ-niệm mà vẫn cứ một mực tín-nguyện Niệm-Phật, tâm-niệm an trụ nơi hồng-danh của Đức Phật A-Di-Đà. Kinh A-Di-Đà chép: “Nhất tâm bất loạn tất được vãng-sinh.” Là chỗ nầy. Đây gọi là nhân-duyên đầy-đủ của hàng thượng-căn.
Cũng có hạng người tu binh-thường chân-tín, thiết-nguyện nhưng công-phu Niệm-Phật chưa được thuần-thục. Đến lúc lâm-chung thì lòng tín-nguyện cầu sinh Tây-Phương so với lúc bình-thường lại càng tha-thiết, không bị bệnh khổ hay các chướng-duyên làm dao-động. Lại có được thiện-hữu trợ-niệm. Nhờ vậy tâm của người nầy niệm-niệm an-trụ nơi hồng-danh của Đức Di-Đà mà được vãng-sinh. Đây là nhân-duyên đầy-đủ của hàng trung-căn.
Cũng có hạng người lúc bình-thường không biết gì về tín-nguyện Niệm-Phật cầu sinh Tây-Phương. Đến lúc lâm-chung may-mắn được gặp thiện-hữu khai-thị. Hoặc nói về y-chánh thanh-tịnh tran-nghiêm của Thế-Giới Cực-Lạc khiến tâm người nầy sinh hoan-hỷ hân-cầu. Lại nói về Bổn-Nguyện tiếp-dẫn chúng-sinh của Đức A-Di-Đà khiến tâm người nầy sinh chánh-tín mà quyết-đinh Niệm-Phật cầu sinh Tây-Phương. Quyến-thuộc lại chịu nghe theo sự hướng-dẫn của thiện-hữu, không làm điều gì có thể khiến cho tâm người bệnh dao-động. Nhờ vậy ngay phút lâm-chung, người nầy Niệm-Phật với sự tha-thiết như đứa bé thơ bị lạc mẹ. Do đó được từ-lực của Phật tiếp-dẫn mà vãng-sinh. Đây là nhân-duyên đầy-đủ của hàng hạ-căn.
6. HỎI: Người lúc bình-thường hoàn-toàn chưa biết tín-nguyện Niệm-Phật, đến lúc lâm-chung gặp được thiện-hữu khai-thị, sau khi nghe xong, tâm sinh hoan-hỷ, tín-thụ, phát-nguyện Niệm-Phật cầu sinh Tây-Phương. Quyến-thuộc cũng không gây ra các chướng-ngại. Lại được trợ-niệm mà vãng-sinh Tây-Phương. Sao mà dẽ-dàng như vậy được?.
ĐÁP: Xin giải rõ thêm. Người nầy lúc bình-thường chưa hề tín-nguyện, Niệm-Phật cầu sinh Tây-Phương là vì KHÔNG BIẾT. Đến lúc lâm-chung gặp được thiện-hữu khai-thị mà sinh tâm quyết-định tín-nguyện Niệm-Phật. Điều nầy chứng-tỏ rằng đời trước đã có căn-duyên Niệm-Phật. Đây là “nhân” thù-thắng. Được thiện-hữu khai-thị, trợ-niệm là “duyên” thù-thắng. Trường-hợp nầy hy-hữu rất ít có.
7. HỎI: Chúng tôi là hàng Phật-tử tại gia. Nếu đến phút lâm-chung của người thân mà không mời được thiện-hữu trợ-niệm thì phải làm sao đây để giúp thân-nhân được vãng-sinh?
ĐÁP: Quý vị có lòng như vậy thật đáng quý. Xin đọc kỹ những điều hướng-dẫn sau đây.
NHỮNG ĐIỀU MÀ QUYẾN-THUỘC
CỦA NGƯỜI LÂM-CHUNG CẦN CHÚ-Ý
1. Theo Phật-Pháp, phút lâm-chung là thời điểm rất quan-trọng của một kiếp người. Vì sao vậy? Vì đây là lúc có sự đột biến để thăng hay giáng theo sáu đường. Những diều xảy ra ở phút lâm-chung (cận-tử-nghiệp) ảnh-hưởng rất lớn đến sự thăng-giáng nầy. Đối với người tu Tịnh-Độ thì lại càng cực-kỳ trọng-yếu.
2. Khi có người thân sắp lâm-chung, nếu có Hội Trợ-Niệm cần phải mời họ đến. Khi họ đã đến thì tất-cả mọi người trong nhà phải tuyệt-đối tuân theo sự hướng-dẫn của họ, không được xen ý riêng của mình vào. Nếu không có Hội Trợ-Niệm thì người trong nhà lo trợ-niệm cũng được, cần-yếu là theo đúng Phật-Pháp (sẽ được trình-bày cặn-kẽ ở những phần sau). Điều quan-trọng cần tuân-thủ là hãy làm ma-chay, đừng sát-sanh và cả nhà an chay trong thời-điểm nầy. Khi bệnh người thân trở nặng thì chỉ lo trợ-niệm chứ ĐỪNG CHO UỐNG NHÂN-SÂM HAY TIÊM THUỐC HỒI-SINH. Vì làm vậy rất trở-ngại cho chuyện vãng-sinh Tây-Phương. Xin ghi nhớ điều nầy.
3. Phải biết rằng khi người thân lâm-chung, họ phải theo một trong bảy đường sau: Ba đường dữ (Địa-ngục, Ngạ-quỷ, Súc-sinh), Ba đường lành (Trời, Người, A-tu-la), và Thánh-đạo Tây-Phương Cực-Lạc. Mình trợ-niệm để giúp họ được vãng-sinh Tây-Phương, vĩnh-viễn thoát khỏi sáu nẻo luân-hồi. Trái lại, nếu mình khóc-lóc, kêu réo, thở-than thì chỉ khiến cho họ động tâm mà đọa vào ba đường dữ. Hãy suy-nghĩ cặn-kẻ điều nầy.
4. Trong kinh-điển Phật đã dạy tường-tận rằng nếu đọa vào ba đường dữ thì chịu muôn vàn thống-khổ, nhất là địa-ngục thời-gian lại rất dài lâu. Những điều nầy là sự thực, chứ không phải là chuyện ngụ-ngôn mà Đức Phật đặt ra để răn đời. Trái lại nếu được vãng-sinh Tây-Phương thì vĩnh viễn thoát khỏi ba đường dữ, được ở địa-vị bất thối-chuyển, thân-cận Đức A-Di-Đà và thánh chúng mà an vui tu-tập.
5. Nếu người bệnh bình-thường đã có tâm-nguyện Niệm-Phật cầu sinh Tây-Phương thì rất tốt. Nếu không có tín-tâm hoặc không thông-hiểu về chuyện Niệm-Phật cầu sinh Tây-Phương thì người thân hãy giải-thích cho họ hiểu rằng “làm người không phải vĩnh-viễn cứ làm người. Có sáu đường sinh-tử luân-hồi, trong đó ba đường dữ rất thống khổ mà lại dễ đọa vào. Ngược lại Thế-giới Tây-Phương của Đức A-Di-Đà thì rất là an-lạc, được sinh sang đó thì vĩnh-viễn không bị đọa vào ba đường dữ. Phước-lạc của người được sinh sang đó thật không thể nghĩ-bàn. Điều-kiện để được vãng-sinh thì do Bổn-Nguyện của Đức A-Di-Đà nên rất dễ-dàng. Hễ có tín-nguyện mà niệm Danh-hiệu của Ngài (NAM MÔ A-DI-ĐÀ PHẬT) thì lúc lâm-chung chắc-chắn được Ngài đến rước về cõi Tây-Phương Cực-Lạc.
6. Tâm-niệm của người sắp lâm-chung ảnh-hưởng rất lớn đến kiếp lai-sinh của họ (Cận-tử-nghiệp) do đó người thân làm sao để họ không bị phiền-não. Khi họ còn tỉnh-táo hãy hỏi rõ những gì cần căn-dặn. Làm sao để họ yên-tâm mà ra đi. Tuyệt-đối đừng đem những vấn-đề nhiêu-khê của kiếp người mà làm họ bận-tâm trong thời điểm nầy. Phải biết rằng làm vậy thì không những người chết bị đọa lạc, mà người sống cũng sẽ bị chướng-duyên nặng-nề trong tương-lai.
7. Nếu có thân-hữu hoặc bà con đến thăm người bệnh, thì trước khi họ gặp người bệnh hãy yêu-cầu họ đừng nói hay làm gì có thể gây chướng-duyên cho vấn-đề vãng-sinh.
8. Vấn-đề trợ-niệm cũng phải hết sức tế-nhị. Khi người bệnh còn tỉnh-táo, hãy hỏi kỷ về ý-muốn của ho. Ví dụ muốn được lớn tiếng trợ niệm hay niệm vừa đủ nghe là được, dùng khánh, mõ hay chuông v..v…Tùy theo hoàn-cảnh mà thiết-trí tượng Đức A-Di-Đà chứ không phải nhất-thiết là phải ở hướng Tây. Đừng chấp-chặt theo hình-thức mà làm người bệnh phiền-não.
9. Cũng có người bệnh do nghiệp-chướng của họ mà không muốn người khác thế họ Niệm-Phật, không muốn nghe người khác Niệm-Phật, hoặc nghe Niệm-Phật thì bực-bội. Gặp trường-hợp nầy quyến-thuộc hãy đến trước bàn Phật, thành-khẩn vì họ mà cầu xin sám-hối. Xin kể hai chuyện mới xảy ra gần đây. Năm ngoái có một vị cư-sĩ, khi mẹ ông bị bệnh sắp mất, ông liền mời Hội Trợ-Niệm đến nhà để hộ-niệm cho mẹ. Mẹ ông khi nghe Niệm-Phật, trong lòng bức-rức chịu không nổi nên yêu cầu đừng niệm! Thầy quy-y của vị cư-sĩ thấy vậy, biết rằng đây là nghiệp-chướng phát hiện, liền tụng cho bà mấy bộ kinh Địa-Tạng. Vị cư-sĩ cũng hết-sức thành-khẩn đối trước phật ăn-năn sám-hối cho mẹ. Sau đó, bà đột-nhiên hoan-hỷ muốn nghe Niệm-Phật mà an-nhiên vãng-sinh. Lại có một vị cư-sĩ khác, cha ông bị bệnh khi sắp mất thấy một người đàn bà và một con chó đến đòi mạng. Cư-sĩ liền Niệm-Phật sám-hối cho cha thì ông không còn thấy nữa. Sau đó cha ông lại thấy hai nhà sư hiện đến nói rằng: “Ông đời trước ngăn-cản chúng tôi vãng-sinh, nay chúng tôi đến để cản ông đây”. Cư-sĩ lại vì cha đối trước Phật sám-hối và cầu siêu cho hai vị tăng. Cha ông không còn thấy họ nữa. Sau cùng cha ông thấy một lão tăng hiện đến mà bảo rằng: “Oan-nghiệp của ông đã được tiêu trừ, ba lần bảy nữa ông sẽ được vãng-sinh. Cứ nói ‘ba lần bảy’ là con ông hiểu.”. Cả nhà đều cho rằng ‘ba lần bảy’ là 21 ngày. Trợ-niệm bấy lâu đã mệt nay lại thêm 21 ngày quả thật là khó-khăn. Không ngờ 21 giờ sau thì người cha được vãng-sinh. Hai câu chuyện có thật trên đây cho thấy sự trọng-yếu của vấn-đề trợ-niệm lúc lâm-chung.
10. Khi người bệnh sắp tắt thở thì nếu đã có người trợ-niệm, thân-nhân hãy đối trước bàn Phật A-Di-Đà, khẩn thiết cầu xin Ngài tiếp-dẫn thần-thức người chết vãng-sinh Tây-Phương. Nếu người trợ-niệm ít hoặc không có, thân-nhân hãy đến gần người sắp chết mà trợ-niệm. Nhớ là đừng đứng ngay trước mặt vì ở thời điểm nầy người chết rất dễ động tâm, trở ngại chánh-niệm. Do đó không nên để cho thấy mặt. Giọng Niệm-Phật nhớ đừng bi-lụy vì sẽ khơi dậy tình-cảm nơi người chết, khó mà vãng-sinh. Thân-nhân cần ghi nhớ hai điều nầy.
11. Sau khi người chết đã tắt thở nhưng thi-thể chưa lạnh hẳn (nghĩa là thần-thức còn đó chưa đi), thân-nhân cần để ý các điều sau:
a. Vẫn tiếp-tuc lớn tiếng Niệm-Phật trợ-niệm.
b. Hãy coi chừng đừng để ruồi muỗi đậu lên thi-thể người chết vì họ vẫn còn cảm-giác!
c. Đừng khám-xét thi-thể để đoán xem đi về đâu vì làm vậy rất có hại cho người mất.
d. Nếu có ban Trợ-Niệm phải tuyệt-đối tuân theo sự hướng-dẫn của họ.
e. Tuyệt-đối đừng tin theo các hủ-tục phổ-thông của thế-gian. Xin nêu ra đây vài điều:
· Cho rằng khi thi-thể còn nóng, khớp xương còn mềm-mại, phải thay quần áo cho họ lúc nầy.
· Cho rằng khi người thân tắt thở cần phải khóc lớn để đẩy lui hung-tinh!
· Cho rằng hễ tắt thở là phải lo liệm ngay, nếu không sẽ mắc nợ “miên-sàng” v..v..